Khi chữ còn biết lặng, và người còn nhớ đến gió Đoài, văn chương vẫn còn chỗ đứng cho những gì không cần phô mà vẫn sống lâu.
k.
Có một câu hỏi tôi tự đặt ra trước khi bắt đầu:
Nếu không ai gọi tên, thì xứ Đoài trong văn chương sẽ tồn tại bằng cách nào?
Chúng ta đã có hàng trăm bài thơ viết về làng quê, biết bao tác phẩm ngợi ca đồng bằng Bắc Bộ, vô số chân dung văn nhân từng sống trên đất Đoài. Nhưng xứ Đoài, như một không gian văn hóa riêng biệt, một miền khí hậu tinh thần, dường như vẫn chưa được gom lại thành dòng chảy có ý thức.
Dự án này bắt đầu từ khoảng trống đó.
Không phải để bổ sung một vùng cho bản đồ văn học Việt Nam, mà là để vẽ lại một mạch thở – mạch thở của Đoài trong văn, và văn trong Đoài.
1. Đoài trong văn – một dòng khí lặng lẽ
Xứ Đoài từng xuất hiện rải rác trong thơ, ca dao, văn xuôi, nhưng phần lớn là qua dáng đứng, giọng nói, khí chất của người viết hơn là qua tên gọi địa phương.
Ta đọc Quang Dũng, thấy Đoài hiện ra không chỉ ở từ “Sơn Tây”, mà ở cái cách ông dừng lại giữa một câu thơ, ở những hình ảnh trầm mặc:
“Đôi mắt người Sơn Tây
U uẩn chiều lưu lạc”
Đó không còn là địa lý, mà là một miền của cảm, một “Đoài” nội tâm, nơi mọi thứ được giữ gìn đến mức kiệm lời.
Đoài trong văn, vì vậy, không nằm ở chi tiết, mà ở tiết chế.
Không nằm ở màu sắc, mà ở cách im lặng.
Không nằm ở điều nói ra, mà ở lớp lặng sâu bên dưới điều chưa nói.
2. Văn trong Đoài – và ý thức giữ chữ như giữ lửa
Trở lại với chính đất Sơn Tây, Ba Vì, Phúc Thọ…, những vùng đất được xem là cái nôi của xứ Đoài, ta thấy nhiều người viết không nổi danh cả nước, nhưng sống bền trong lòng người cùng quê. Vì họ viết bằng khí hậu của đất mình.
Họ viết chậm, viết buồn, viết như đặt một nắm tro ấm vào lòng người đọc. Không thi triển kỹ thuật, không chạy theo chủ đề thời sự. Chỉ đơn thuần kể lại một mùa không tiếng chim, một người cha gánh nước, một bà cụ đan rổ dưới hiên.
Ở Đoài, người viết thường không vội.
Và chính điều đó làm nên một dạng trí tuệ tĩnh, khác với kiểu khôn lanh gấp gáp của đô thị hóa.
Trong văn, ta thấy Đoài hiện ra như một vệt chậm – lặng – lùi – nhưng thấu.
Đó là nơi câu chữ không cố làm sang, nhưng giữ được độ sâu của lặng thinh.
3. Tại sao cần gom lại Đoài khi ai cũng đang viết về đô thị, về công nghệ, về toàn cầu?
Chính vì vậy.
Chính vì sự dịch chuyển, sự hoà tan, sự mất dấu ngày càng nhiều, ta mới cần có một nơi để người viết được trở về với một khí hậu cũ, nhưng chưa cạn.
Dự án này không tham vọng tạo ra một “văn học địa phương”.
Tôi tin, văn học lớn không nằm ở địa lí, mà ở chiều sâu tinh thần.
Và nếu tinh thần ấy gắn liền với cách nói nhỏ nhẹ, với lòng kiên nhẫn, với cái nhìn trầm tĩnh, thì văn học xứ Đoài xứng đáng có mặt như một phần của bản đồ văn hóa Việt.
Đoài trong văn không phải một khoảnh đất cụ thể.
Nó là cách nói mà không cần cãi.
Là lòng thương mà không cần kể.
Là sự lặng mà không hề lạnh.
Văn trong Đoài là cách sống được chép lại bằng chữ.
Là nếp nghĩ, nếp nhớ, nếp đau được cất giấu sau những hình ảnh tưởng bình thường.
Và như thế, khi ta còn viết về Đoài, nghĩa là ta còn giữ lấy phần nhân hậu nhất trong cách làm người.
K.