Ở nơi giao giữa những đường viền văn hóa Bắc Bộ, từ kinh thành Thăng Long về phía tây bắc, có một vùng đất sản sinh ra nhiều nho sĩ cốt cách, sống giản dị mà tinh thần uyên áo. Trong số ấy, Dương Khuê, sinh quán tại làng Vân Đình, huyện Sơn Minh, phủ Ứng Hoà, một vùng cổ đất xứ Đoài xưa, là cái tên không thể không nhắc tới. Ông không chỉ là một danh thần triều Nguyễn, một nhà thơ Nôm, mà còn là một nhân vật gói trọn bi kịch của tầng lớp sĩ phu Bắc Hà khi Nho học rơi vào buổi hoàng hôn.
1. Gốc gác: Một ông nghè Bắc kỳ giữa triều đình Huế
Dương Khuê sinh năm 1839, đỗ cử nhân năm 1868, rồi đỗ Đình nguyên Hoàng giáp khoa Kỷ Tị (1869), làm quan đến Hiệp tá Đại học sĩ, được phong tước Dương Lâm hầu. Là người Bắc, nhưng suốt đời ông phải sống và làm việc ở miền Trung, phục vụ triều đình nhà Nguyễn trong vai trò quan trấn, giám sát, rồi thượng thư.
Tuy nhiên, dù đi xa, ông vẫn luôn mang trong mình cốt cách của một kẻ sĩ đất Bắc, chừng mực, lặng lẽ, và ưu thời mẫn thế. Cái chất “xứ Đoài” trong ông không nằm ở địa danh, mà nằm ở khí cốt: tự trọng, điềm đạm, và thấu hiểu cái giới hạn của bậc quân tử trong thời thế đảo điên.
2. Bóng chiều Nho học và nỗi cô đơn của người giữ lửa
Là nhà nho sống vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Dương Khuê chứng kiến toàn bộ sự lung lay của trật tự cũ: triều đình nhu nhược, đất nước phân chia, lòng người ly tán. Ông sống trong sự kìm nén và giữ mình, không theo Tây, không chống Tây, không khởi nghĩa, không phản trắc, mà chỉ cố làm tròn bổn phận một bề tôi, thứ đạo lý cũ mà ông tin là cuối cùng có thể giữ được phẩm giá người quân tử.

Nhưng chính điều đó lại khiến ông đơn độc. Ông buồn, mà không oán; ông biết thời đã khác, mà không phản kháng bằng bạo động. Cái buồn của ông thấm vào thơ, thấm vào những dòng từ chối bạn bè, thấm vào chính sự lặng lẽ rút lui khỏi chính trường lúc tuổi già.
3. Bài thơ gửi Nguyễn Khuyến – lời từ biệt muộn mà cõi nhân gian còn vọng mãi
Thứ làm tên tuổi Dương Khuê còn được biết đến rộng rãi với hậu thế chính là bài thơ Nguyễn Khuyến viết khóc ông, một kiệt tác văn học cuối thời Nho học, đồng thời là một trong những thi phẩm biểu hiện rõ nhất tình bằng hữu của hai người bạn Nho sĩ đất Bắc:
“Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở,
Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương;
Tuổi già hạt lệ như sương,
Hơi đâu chuốc lấy hai hàng chứa chan!”Ông mất rồi tôi khóc Tản Viên
Chút nước mắt tuôn trào lai láng…”
Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Khuyến, một người thâm trầm và kín đáo, lại dành những dòng thơ thống thiết như thế cho Dương Khuê. Họ không chỉ là bạn thơ, mà còn là tri kỷ cùng mang tâm sự kẻ sĩ “tài đành phận mỏng”, biết rõ mình lỡ thời nhưng không dám thoát khỏi đạo lý. Cái chết của Dương Khuê là cái chết của một thế hệ, và nước mắt của Nguyễn Khuyến là nỗi than của cả một thời đã mất.
4. Một hồn vía xứ Đoài: yên tĩnh, điềm đạm, sống giữa trầm tích

Dù sinh ra và làm quan xa xứ, Dương Khuê vẫn là một biểu tượng đặc biệt cho lớp kẻ sĩ Đoài cổ, những người không dấn thân theo cách hừng hực, mà chọn sống và chết trong trật tự trầm mặc của Nho giáo. Không ồn ào, không khởi nghĩa, nhưng họ để lại di sản trong cách họ giữ phẩm giá, giữ mực thước, giữ đạo làm người giữa thời buổi không còn ai giữ gì cả.
Và vì vậy, Dương Khuê không phải là “nhà thơ lớn”, không là “tư tưởng gia vĩ đại”, nhưng là một mảnh gương phản chiếu trung thực tâm thế người Đoài khi gió thời đại thổi qua mái đình xưa.
K.
(ảnh: Trương Tuấn)